Mới sự khác nhau giữa coherence and cohesion là gì, coherence and cohesion review cohesion là gì – nghĩa của từ cohesion

Bạn đang xem: Mới sự khác nhau giữa coherence and cohesion là gì, coherence and cohesion review cohesion là gì – nghĩa của từ cohesion Tại monrun.vn

Giới thiệu 

Được sử dụng rộng rãi trên toàn toàn cầu với mục đích nhận xét năng lực ngoại ngữ cho những người muốn học tập, làm việc hay sinh sống ở nơi tiếng Anh được dùng như ngôn từ phổ thông, bài thi IELTS xác minh khả năng sử dụng tiếng Anh một cách toàn diện dựa trên 4 kĩ thuật: nghe, nói, đọc và viết. Nếu như kĩ thuật nghe và đọc được xếp vào nhóm kĩ thuật lĩnh hội (receptive skills), yêu cầu người thi tiếp thụ và xử lí thông tin thụ động, kĩ thuật nghe và nói thuộc về nhóm sản xuất (productive skills), yêu cầu người thi trình bày thông tin một cách trực tiếp và chủ động khi không có nhiều dữ liệu cho trước.

Bạn đang xem: Coherence and cohesion là gì

Theo dữ liệu từ trang chủ của kì thi IELTS (ielts.org), số điểm trung bình các thí sinh Việt Nam đạt được với nhóm kĩ thuật sản xuất (nói, viết) thấp hơn rõ rệt so với nhóm kĩ thuật lĩnh hội (nghe, đọc) –– mức chênh lệch khoảng 0.5 band điểm. Đặc biệt, số điểm trung bình chỉ 5.6, thấp nhất trong toàn bộ các kĩ thuật, cho thấy kĩ thuật Viết là một trở ngại không hề nhỏ với các thí sinh.

* Sách luyện thi IELTS Writing cho trình độ 6.5 IELTS

Tổng quan

Tổng quan tiêu chuẩn chấm điểm

Toàn bộ các bài thi viết IELTS đều được nhìn nhận dựa trên 4 tiêu chuẩn: Khả năng trả lời đề bài (Task Response), Độ mạch lạc & link (Coherence & Cohesion), Khả năng từ vựng (Lexical Resources), và Ngữ pháp & độ đúng đắn (Grammar & Accuracy).Trong khi hai yếu tố trước hết (Khả năng trả lời đề bài & Mức độ mạch lạc) thuộc về phần ý tưởng và nội dung của nội dung, hai yếu tố sót lại (Khả năng từ vựng & ngữ pháp) nằm nhiều hơn về kĩ thuật miêu tả, khả năng kiểm tra ngôn từ và trình bày của người thi. Dù nhận xét những mặt khác nhau của nội dung, song cả 4 tiêu chuẩn đều chiếm phần trăm bằng nhau (25%) và do đó trọng yếu như nhau đến số điểm cuối cùng cho kĩ thuật Viết.

Tiêu chí Coherence – Cohesion, khác biệt và tầm trọng yếu

Theo trang chủ ielts.org phân tích, tiêu chuẩn Coherence & Cohesion, mặc dù được gộp chung là một tiêu chuẩn chấm điểm, có thể được phân tách làm hai thành tố tách biệt khi nhận xét nội dung nội dung. Coherence (tạm dịch: tính mạch lạc) chỉ mức độ rõ ràng, kết nối, logic về mặt ý tưởng của từng đoạn cũng như trong cả nội dung (logical sequencing). Trong khi đó, Cohesion (tạm dịch: tính link) lại nhằm nhận xét tính link của nội dung dựa trên khả năng sử dụng ngữ pháp và từ vựng, như từ nối, quan hệ từ, để tạo ra sự kết nối và mạch lạc cho các mệnh đề trong câu, giữa các câu trong đoạn, hay thậm chí giữa các đoạn văn trong bài. Lấy một phép so sánh đơn giản, nếu như ví nội dung là một ngôi nhà, coherence sẽ là phần móng và khung kết cấu cho ngôi nhà vững chãi, còn cohesion sẽ là gạch, nền lát, nước sơn để đắp cho ngôi nhà hoàn thiện. Hai ví dụ dưới đây sẽ làm rõ hơn sự khác biệt giữa hai thành tố.

Ví dụ có Coherence nhưng không có Cohesion:

Ví dụ có Coherence nhưng không có Cohesion:

“Unequal access to education – a dire problem. Therefore, children have limited learning resources; students leave school early in case make end meets. For example, this intensifies educational gaps, inequality at the social level.”

Phân tích ví dụ trên, người đọc có thể nắm được ý chính của đoạn văn, rằng bất đồng đẳng về tiếp cận giáo dục (unequal access to education) là một vấn đề nghiêm trọng, được trổ tài qua việc trẻ nhỏ bị hạn chế nguồn lực học tập (limited learning resources), học viên bỏ học để đi kiếm sống (make end meets). Tức đoạn văn vẫn có tính mạch lạc (coherence). Tuy nhiên, khi xét đến tính link giữa các câu trong đoạn văn trên, ta thấy những cụm từ nối Therefore, For example, in case không mô tả đúng quan hệ giữa các câu hoặc giữa các vế trong câu, có thể gây khó hiểu, cản trở nội dung muốn truyền đạt. Vì vậy, đoạn văn này không có tính link (cohesion), hay nói cách khác, không trôi chảy. 

 Ví dụ có Cohesion nhưng không có Coherence:

Ví dụ có Cohesion nhưng không có Coherence:

“Unequal access to education in remote areas is a dire problem. Therefore, we should ignore and do nothing about it.”

Ở ví dụ này, tác giả không gặp vấn đề về cách miêu tả: Therefore được dùng một dụng cụ nối, chỉ quan hệ nguyên nhân – kết quả giữa hai câu đơn; it thay thế cho dire problem ở câu trước, giúp miêu tả ngắn gọn và rõ ràng. Từ ngữ, cấu trúc câu ở ví dụ này không gặp vấn đề và hoàn toàn dễ hiểu so với người đọc. Tuy nhiên, nội dung của đoạn văn trên lại không hợp lí. “Bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy, chúng ta nên bỏ qua và không làm gì đến nó.” Ở câu trước, tác giả nhấn mạnh về một vấn đề mang tính cấp thiết, gợi ý về việc phân tích, hoặc mang ra phương án cho vấn đề đã nêu ở những câu tiếp theo; câu sau đi hoàn toàn trái lại khi nói rằng nên bỏ qua vấn đề này. Rõ ràng, nội dung đoạn văn tác giả muốn truyền tải gặp vấn đề về tính logic, khiến đoạn văn không có tính thống nhất và mạch lạc (coherence). 

Qua hai ví dụ trên có thể thấy tiêu chuẩn Coherence & Cohesion trong IELTS Writing đòi hỏi thí sinh phải đảm bảo tính link, mạch lạc và logic về cả hình thức, văn phong trình bày lẫn nội dung nội dung. Dù thiếu đi bất kì yếu tố nào trong hai yếu tố đã nêu, đoạn văn hay nội dung cũng trở nên thiếu rõ ràng, mạch lạc, dễ gây khó hiểu cho người đọc và cản trở nội dung tác giả muốn truyền đạt. Điều này tác động một cách trực tiếp đó band điểm Writing của người thi. 

Phân tích cụ thể theo từng band điểm

Miêu tả thang chấm điểm, band 4 – 6.

*

Bảng tham chiếu band điểm, kĩ thuật Viết IELTS

Qua khung tham chiếu trên, người đọc có thể nhận thấy được sự khác biệt rõ ràng giữa các mức điểm cho tiêu chuẩn Coherence & Cohesion. Ở mức điểm thấp nhất được đề cập – band 4, người thi có khả năng trình bày thông tin (present information and ideas), tuy nhiên chưa biết cách sắp xếp nội dung nội dung một cách logic và không phát triển được được quan niệm mang ra trong bài. Đồng thời, người thi biết cách sử dụng một số cụm từ link, song sử dụng không đúng đắn, chưa hợp lí hoặc bị lặp lại xuyên suốt. Ngoài ra, khả năng trình bày đoạn văn có thể gây khó hiểu cho giám khảo/người đọc. Ở chiều trái lại, với band điểm cao nhất được đề cập – band 6, người viết đã có khả năng sắp xếp ý tưởng một cách thống nhất và mạch lạc, đồng thời biết cách phát triển ý tưởng xuyên suốt. Người viết cũng có khả năng dùng các dụng cụ link (cohesive devices) một cách hiệu quả, mặc dù kết nối giữa các câu vẫn có vấn đề đôi chỗ. Các từ nối, từ thay thế được sử dụng, nhưng có thể chưa hợp lí/hiệu quả. Vậy, trong phần tiếp theo của nội dung, tác giả sẽ đi tập trung phân tích các nhược điểm hay gặp ở band 4, band 5 và các hướng khắc phục để lên band điểm cao hơn cho tiêu chuẩn tiêu chuẩn Coherence & Cohesion.

Lưu ý: Nếu người đọc chưa rõ về khái niệm từ thay thế, trích dẫn (referencing), vui lòng tham khảo thêm nội dung này trước khi đọc tiếp.

Phân tích Band 4 đến Band 5

Ví dụ (tiêu chuẩn Coherence & Cohesion: Band 4) 

Phân tích ví dụ sau đây: 

“The statistics show the number of trips made by children in one country over the past two years to travel to and from school using different modes of transport. Children walking (13 million) are the by far highest, while the children use the bus (7 million) are a bit higher than the children use the car in 1990. The children used car in 2010 was 11 million; while, The children use the bus was 5 million in 2010. Contrastingly, The children walking (6 million) are Twice as high as the children used cycling (3 million) in 2010. There were only 5 million children cycling, while there were 13 million children walking in 1990. therefore, at the end of the period, there were 12,000,000 children walking in 1990, 11,000,000 children used car in 2010 and 5,000,000 children use bus.” 

Bỏ qua các tiêu chuẩn về từ vựng, mức độ hoàn thiện bài hay ngữ pháp, tác giả của ví dụ trên đã mắc những lỗi cơ bản về cách trình bày thông tin, dẫn theo tính mạch lạc và thống nhất của nội dung bị tác động nghiêm trọng:

Thiếu link: Các thông tin, số liệu, hay ý tưởng được mang ra trong bài, mặc dù được trình bày một cách đầy đủ, đều thiếu tính link trong đoạn văn, khiến bài giải trình không có sự phát triển về mặt ý tưởng xuyên suốt. Ví dụ, ở câu 3 (the children used car in 2010), tác giả đơn thuần mang ra số liệu về số lượng trẻ nhỏ sử dụng xe buýt (children use bus) và xe hơi (children use car) trong năm 2010 mà thiếu đi tính so sánh giữa chính hai chủ thể đó, cũng như tính link với câu trước hay câu sau trong đoạn văn –– dấu hiệu của thông tin không được sắp xếp mạch lạc (information and ideas are not arranged coherently). Số liệu không được sắp xếp và thống nhất: Tác giả khởi đầu nội dung bằng cách so sánh số lượng trẻ nhỏ sử dụng xe buýt và xe hơi năm 1990 (in 1990), tiếp nối bằng việc so sánh số liệu tương tự cho năm 2010 (in 2010), trước khi quay trở lại giải trình số liệu cho năm 1990, và tổng kết bằng thông tin của cả năm 1990 và 2010. Thậm chí, số liệu there were 13 million children walking in 1990 ở câu số 4 cũng không thống nhất với 12,000,000 children walking in 1990. Rõ ràng, việc sắp xếp các thông tin không theo trình tự, không thống nhất và liên tục “nhảy” giữa các mốc thời gian khác nhau (1990 và 2010) khiến thông tin không mạch lạc, khiến bản giải trình trở nên rối rắm và khó theo dõi. Vấn đề từ nối: Tác giả có nỗ lực sử dụng những từ nối link thông tin, nhưng không đúng đắn và thiếu hợp lí. Ví dụ như therefore, một từ nối dùng cho quan hệ nguyên nhân – kết quả, dùng ở cuối nội dung không hề trổ tài một mối quan hệ nào như vậy. Đồng thời, những từ nối khác như Contrasting, However đều không đúng đắn. 

Các thông tin, số liệu, hay ý tưởng được mang ra trong bài, mặc dù được trình bày một cách đầy đủ, đều thiếu tính link trong đoạn văn, khiến bài giải trình không có sự phát triển về mặt ý tưởng xuyên suốt. Ví dụ, ở câu 3 (the children used car in 2010), tác giả đơn thuần mang ra số liệu về số lượng trẻ nhỏ sử dụng xe buýt (children use bus) và xe hơi (children use car) trong năm 2010 mà thiếu đi tính so sánh giữa chính hai chủ thể đó, cũng như tính link với câu trước hay câu sau trong đoạn văn –– dấu hiệu của thông tin không được sắp xếp mạch lạc (information and ideas are not arranged coherently).Tác giả khởi đầu nội dung bằng cách so sánh số lượng trẻ nhỏ sử dụng xe buýt và xe hơi năm 1990 (in 1990), tiếp nối bằng việc so sánh số liệu tương tự cho năm 2010 (in 2010), trước khi quay trở lại giải trình số liệu cho năm 1990, và tổng kết bằng thông tin của cả năm 1990 và 2010. Thậm chí, số liệu there were 13 million children walking in 1990 ở câu số 4 cũng không thống nhất với 12,000,000 children walking in 1990. Rõ ràng, việc sắp xếp các thông tin không theo trình tự, không thống nhất và liên tục “nhảy” giữa các mốc thời gian khác nhau (1990 và 2010) khiến thông tin không mạch lạc, khiến bản giải trình trở nên rối rắm và khó theo dõi.Tác giả có nỗ lực sử dụng những từ nối link thông tin, nhưng không đúng đắn và thiếu hợp lí. Ví dụ như therefore, một từ nối dùng cho quan hệ nguyên nhân – kết quả, dùng ở cuối nội dung không hề trổ tài một mối quan hệ nào như vậy. Đồng thời, những từ nối khác như Contrasting, However đều không đúng đắn.

Dựa trên các lỗi vừa nêu ra, chiếu theo khung tham chiếu được nhắc đến ở trên, bài giải trình này sẽ đạt khoảng điểm 4 trong IELTS Writing Task 1 cho riêng tiêu chuẩn Coherence & Cohesion.

Lỗi thường gặp & hướng khắc phục

Tổng quan hơn, có hai lỗi thường thấy nhất ở thí sinh đạt mức điểm này (được lưu ý trong thang chấm điểm):

Thông tin được trình bày, nhưng không được sắp xếp một cách logic, mạch lạc; sự phát triển về mặt ý tưởng là không có trong nội dung.Các cụm từ nối được sử dụng, song không linh hoạt, không đúng đắn và thường bị lặp lại.

Xem thêm:

Thông tin được trình bày, nhưng không được sắp xếp một cách logic, mạch lạc; sự phát triển về mặt ý tưởng là không có trong nội dung.Các cụm từ nối được sử dụng, song không linh hoạt, không đúng đắn và thường bị lặp lại.Xem thêm: Thèm Chua Là Con Gì – Thèm Chua Sinh Con Gì

Trước khi phân tích hướng khắc phục để lên điểm, người đọc nên xem xét những yêu cầu ở band cao hơn –– band 5:

Mang ra thông tin có sự tổ chức, sắp xếp, thống nhất, nhưng thiếu đi sự phát triển ý tưởng xuyên suốt.Dùng từ nối không hợp lí, không đúng đắn, hoặc quá mức.Thông tin có thể bị lặp lại do thiếu từ thay thế, hoặc từ trích dẫn.

Mang ra thông tin có sự tổ chức, sắp xếp, thống nhất, nhưng thiếu đi sự phát triển ý tưởng xuyên suốt.Dùng từ nối không hợp lí, không đúng đắn, hoặc quá mức.Thông tin có thể bị lặp lại do thiếu từ thay thế, hoặc từ trích dẫn.

So với band 4, band 5 vẫn cho phép người viết thiếu đi sự phát triển ý tưởng xuyên suốt và cách sử dụng từ nối đúng đắn; tuy nhiên, band 5 lại yêu cầu người viết khởi đầu biết cách tổ chức ý tưởng, và sắp xếp thông tin. Band 5 đồng thời cho thấy rằng người viết sẽ không mắc lỗi lặp thông tin về mặt ý tưởng, nhưng có thể mắc lỗi về mặt trình bày do thiếu khả năng dùng từ trích dẫn. 

Vậy, để phát triển từ band 4 lên band 5, người đọc nên bước đầu tập trung vào khả năng đọc, hiểu biểu đồ và dữ liệu, để từ đó có nền tảng phát triển và sắp xếp thông tin một cách thống nhất, trước khi nghĩ tới việc phát triển ý tưởng cho những band điểm cao hơn. Người đọc có thể chưa cần quá quan tâm đến từ trích dẫn, nhưng nên tập trung cải tổ khả năng sử dụng những từ ngữ link, như In contrast, However, Overall, Therefore, Although, để có khả năng cao hơn lấy điểm ở mức band 5. 

Phân tích Band 5 đến Band 6

Ví dụ (tiêu chuẩn Coherence & Cohesion: Band 5) 

Phân tích ví dụ sau đây: 

“Nowadays, there are α lot of cars on British roads, and they have increased day by day. By the year 2000, there may be as many as 29 million vehicles on British roads. In this essay, Ι intend to examine the solutions to these problems.

Firstly, the people living in Britain need to think about themselves. If they used the bus and train instead of their car, this problem would resolve α little. Because of this, the British Government should introduce to control car ownership and use. For example, the Government can ban to enter the road by car in the same day all family from α house.

Secondly, the buses and trains of the Government should be free for the public population. Thus, people would use these transport vehicles instead of their car. For instance, the roads in Britain would be safer and more comfortable.

Lastly, the number of cars exported from another country should decrease, and cars’ prices should increase in case they aren’t overcrowded. For example, the prices of cigarettes increased, and the consumption of cigarettes went down.

In conclusion, if these measures are put into action, traffic can be decreased in the British roads.”

Xét về mặt nội dung, nội dung có tính tổ chức, thống nhất (organisation) ở mức cơ bản, song sự phát triển ý tưởng (overall progression) và tính mạch lạc (coherence) còn đơn giản và chưa rõ ràng. Rõ ràng hơn, về cách tổ chức nội dung, tác giả có phân tách ba ý tưởng khác nhau cho ba đoạn văn, đồng thời có những lí lẽ và dẫn chứng mang tính link nhằm bổ sung cho câu đề tài (thesis statement). Phân tách: 

Về đoạn thân bài trước hết: Tác giả mang ra những lí do được chỉ báo bằng Because of this hay For example nhằm bổ sung cho câu đề tài The people living in Britain need to think about themselves. Dù có ý tưởng sắp xếp là vậy, nhưng cách triển khai của tác giả không mạch lạc và rõ ràng. Thân bài trước hết, tác giả muốn giới thiệu phương án là chính phủ nên công bố luật kiểm tra sở hữu xe hơi (control car ownership and use). Tuy nhiên, hai câu trước đó về việc người Anh nên nghĩ cho bản thân (think about themselves) và sử dụng phương tiện công cộng thay vì cá nhân (if they used the bus and train would resolve α little) link như vậy nào với điều luật được nhắc đến, tác giả chưa làm rõ. Điều này khiến việc triển khai ý tưởng về phương án trước hết lủng củng và tối nghĩa. Đoạn thân bài thứ hai: Tác giả sắp xếp câu thứ 2 và thứ 3 của đoạn để bổ sung cho câu mở đoạn the buses and trains of the Government should be free for the public population. Trong khi hai câu đầu được link, tuy đơn giản, nhưng có nghĩa rằng phương tiện công cộng miễn phí sẽ khiến người dân dùng phương tiện công cộng nhiều hơn xe hơi cá nhân, câu cuối cùng lại không thoả mãn được mạch logic bên trên khi chỉ đi đến tổng kết rằng đường xá sẽ “thoải mái” (comfortable) hơn. Đồng thời, việc dùng nối For instance ở cuối đoạn văn cũng không đúng đắn khi mô tả quan hệ nguyên nhân – kết quả. Đoạn thân bài cuối cùng: Tác giả muốn giải thích lý thuyết kinh tế về quan hệ tỉ lệ nghịch giữa giá thành và thị trường cầu một cách đơn giản để trợ giúp cho phương án ô tô không nên được nhập khẩu nhiều. Tuy nhiên, phần ví dụ không giúp minh chứng cho người đọc dễ hình dung hơn tình huống mang ra ở câu trước, do tác giả mang ra hai tình huống dựa trên một cơ chế tương đồng mà không thực sự minh hoạ cơ chế trung gian. Mạch logic của đoạn như sau: Giảm lượng nhập khẩu ô tô (the number of cars exported from another country should decrease) → Tăng giá xe (cars’ prices should increase) → Ví dụ như việc Tăng giá thuốc lá (the prices of cigarettes increased) → Giảm nhu cầu hút thuốc lá (the consumption of cigarettes went down). Rõ ràng, phần ví dụ về thuốc lá trổ tài sự minh hoạ nội dung tác giả mang ra ở câu trước đó. Những từ quan hệ như in case, for example cũng không được dùng đúng ngữ nghĩa trong câu. Về tổng thể: Toàn bộ cả ba luận điểm đều đang chỉ nằm ở mức giới thiệu, mang ra một nhất định mà thiếu đi phần trợ giúp và minh chứng cho nhất định đó, làm ý tưởng không được phát triển một cách đầy đủ. Điển hình như trong đoạn 3, hai câu hầu hết không có tác dụng trọng việc trợ giúp hay phát triển ý tưởng của tác giả. Ngoài ra, nội dung mặc dù không mắc vấn đề về việc lặp cách sử dụng ngôn từ, nhưng hầu hết không có những cụm từ trích dẫn, thay thế thiết yếu. 

Tác giả mang ra những lí do được chỉ báo bằng Because of this hay For example nhằm bổ sung cho câu đề tài The people living in Britain need to think about themselves. Dù có ý tưởng sắp xếp là vậy, nhưng cách triển khai của tác giả không mạch lạc và rõ ràng. Thân bài trước hết, tác giả muốn giới thiệu phương án là chính phủ nên công bố luật kiểm tra sở hữu xe hơi (control car ownership and use). Tuy nhiên, hai câu trước đó về việc người Anh nên nghĩ cho bản thân (think about themselves) và sử dụng phương tiện công cộng thay vì cá nhân (if they used the bus and train would resolve α little) link như vậy nào với điều luật được nhắc đến, tác giả chưa làm rõ. Điều này khiến việc triển khai ý tưởng về phương án trước hết lủng củng và tối nghĩa.Tác giả sắp xếp câu thứ 2 và thứ 3 của đoạn để bổ sung cho câu mở đoạn the buses and trains of the Government should be free for the public population. Trong khi hai câu đầu được link, tuy đơn giản, nhưng có nghĩa rằng phương tiện công cộng miễn phí sẽ khiến người dân dùng phương tiện công cộng nhiều hơn xe hơi cá nhân, câu cuối cùng lại không thoả mãn được mạch logic bên trên khi chỉ đi đến tổng kết rằng đường xá sẽ “thoải mái” (comfortable) hơn. Đồng thời, việc dùng nối For instance ở cuối đoạn văn cũng không đúng đắn khi mô tả quan hệ nguyên nhân – kết quả.Tác giả muốn giải thích lý thuyết kinh tế về quan hệ tỉ lệ nghịch giữa giá thành và thị trường cầu một cách đơn giản để trợ giúp cho phương án ô tô không nên được nhập khẩu nhiều. Tuy nhiên, phần ví dụ không giúp minh chứng cho người đọc dễ hình dung hơn tình huống mang ra ở câu trước, do tác giả mang ra hai tình huống dựa trên một cơ chế tương đồng mà không thực sự minh hoạ cơ chế trung gian. Mạch logic của đoạn như sau: Giảm lượng nhập khẩu ô tô (the number of cars exported from another country should decrease) → Tăng giá xe (cars’ prices should increase) → Ví dụ như việc Tăng giá thuốc lá (the prices of cigarettes increased) → Giảm nhu cầu hút thuốc lá (the consumption of cigarettes went down). Rõ ràng, phần ví dụ về thuốc lá trổ tài sự minh hoạ nội dung tác giả mang ra ở câu trước đó. Những từ quan hệ như in case, for example cũng không được dùng đúng ngữ nghĩa trong câu.Toàn bộ cả ba luận điểm đều đang chỉ nằm ở mức giới thiệu, mang ra một nhất định mà thiếu đi phần trợ giúp và minh chứng cho nhất định đó, làm ý tưởng không được phát triển một cách đầy đủ. Điển hình như trong đoạn 3, hai câu hầu hết không có tác dụng trọng việc trợ giúp hay phát triển ý tưởng của tác giả. Ngoài ra, nội dung mặc dù không mắc vấn đề về việc lặp cách sử dụng ngôn từ, nhưng hầu hết không có những cụm từ trích dẫn, thay thế thiết yếu.

Vậy, ví dụ trên là một trường hợp tiêu biểu cho những bài có chất lượng đạt band 5 cho tiêu chuẩn Coherence & Cohesion trong IELTS Writing Task 2. 

Lỗi thường gặp & hướng khắc phục

Tổng quan hơn, những nội dung ở mức điểm 5 sẽ mắc phải những lỗi thường thấy sau đây:

Có tổ chức thông tin nhưng thiếu sự phát triển ý tưởng trong nội dung.Sử dụng cum từ nối chưa hợp lí, hiệu quả.Câu từ bị lặp lại do thiếu khả năng sử dụng từ trích dẫn.Sắp xếp, cấu trúc đoạn văn có thể không thích hợp.

Có tổ chức thông tin nhưng thiếu sự phát triển ý tưởng trong nội dung.Sử dụng cum từ nối chưa hợp lí, hiệu quả.Câu từ bị lặp lại do thiếu khả năng sử dụng từ trích dẫn.Sắp xếp, cấu trúc đoạn văn có thể không thích hợp.

Trước khi phân tích hướng khắc phục để lên điểm, người đọc nên xem xét những yêu cầu ở band cao hơn –– band 6:

Sắp xếp thông tin mạch lạc và rõ ràng, có sự phát triển ý tưởng xuyên suốt.Dùng các cụm từ nối hiệu quả, tuy nhiên nội dung link giữa các từ trong câu và/hoặc các câu trong đoạn máy móc và lấp lửng.Từ trích dẫn có thể được dùng chưa thích hợp.Có khả năng sắp xếp, cấu trúc đoạn văn nhưng không phải lúc nào cũng logic.

Sắp xếp thông tin mạch lạc và rõ ràng, có sự phát triển ý tưởng xuyên suốt.Dùng các cụm từ nối hiệu quả, tuy nhiên nội dung link giữa các từ trong câu và/hoặc các câu trong đoạn máy móc và lấp lửng.Từ trích dẫn có thể được dùng chưa thích hợp.Có khả năng sắp xếp, cấu trúc đoạn văn nhưng không phải lúc nào cũng logic.

So sánh giữa band 5 và band 6, người đọc thấy được yêu cầu khác biệt khá rõ về cả mặt nội dung và hình thức. Về nội dung, để lên được band 6, thí sinh cần sắp xếp thông tin, biết cách phát triển nội dung, thay vì chỉ dừng lại ở tổ chức thông tin. Về hình thức, từ nối cần được sử dụng ở một mức độ hiệu quả, thay vì sử dụng ở mức độ đơn giản; từ trích dẫn cần xuất hiện trong bài, dù chưa thích hợp, thay vì không xuất hiện; cấu trúc các đoạn văn cũng nên được gọn gàng và rõ ràng hơn.

Xem thêm: Paid Search Là Gì – Giai Đoạn Nào Nên Dùng Paid Search

Vậy, để nâng band điểm từ band 5 lên band 6, người viết nên tập trung mài dũa khả năng tư duy lên ý tưởng và cấu trúc hoá nội dung bằng cách sử dụng các cấu trúc triển khai luận điểm như Ρ – E – E – ɭ thường được dạy ở các nội dung học thuật. Đồng thời, người viết cũng nên bổ sung vốn từ thay thế và từ nối để tránh dùng quá nhiều từ ở mức độ cơ bản và/hoặc dùng sai những từ mang tính link như vậy.

Chuyên mục:

Chuyên mục: Hỏi Đáp


An Introduction to Cohesion in Academic Writing


In this video for the NUST MISiS Academic Writing Center, English Language Fellow John Kotnarowski provides α brief introduction to the concept of cohesion in academic writing. Defining cohesion as “the grammatical and lexical links within a text”, the video outlines the importance of cohesion in academic writing and offers examples of several useful cohesive devices.

Xem thêm nội dung thuộc thể loại: Hỏi Đáp
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Hỏi Đáp

The post Mới sự khác nhau giữa coherence and cohesion là gì, coherence and cohesion review cohesion là gì – nghĩa của từ cohesion appeared first on Monrun.vn.



source https://monrun.vn/moi-su-khac-nhau-giua-coherence-and-cohesion-la-gi-coherence-and-cohesion-review-cohesion-la-gi-nghia-cua-tu-cohesion/

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trang Tin Làm Đẹp Monrun

Sao la hầu là gì tốt hay xấu chiếu mệnh nam nữ tuổi nào năm 2021 sao la hầu là gì? sao la hầu tốt hay xấu, kỵ khắc màu gì?

Thiết bị ngoại vi là gì ? phân biệt thiết bị ngoại vi thiết bị ngoại vi là gì thiết bị ngoại vi là gì